Tác giả Nguyễn Thanh Việt và cuốn tiểu thuyết "The Sympathizer" (Ảnh Google/Images)
Vào giữa tháng
Tư năm thứ 41 kỷ niệm ngày 30 tháng 4, 1975 cộng đồng Việt hải ngoại, đặc biệt
tại Mỹ, nhận được một ngạc nhiên vô cùng thích thú, nếu không là ngoài sức tưởng
tượng của bất cứ ai. Đó là tin cuốn tiểu thuyết "The Sympathizer" (Cảm
Tình Viên) của Việt Thanh Nguyễn, một người trẻ Việt thuộc thế hệ 1.5 hiện là
giáo sư chuyên ngành văn học và sắc tộc tại trường Đại học University of Southern
California, được giải thưởng Pulitzer về văn chương.
Giải Pulitzer,
năm nay vừa tròn 100 tuổi, là một trong những giải thưởng văn học danh giá nhất
của Hoa Kỳ, có thể nói đây là một giấc mơ của bất cứ người cầm bút nào, và đã từng được trao tặng cho những tác
phẩm nổi tiếng của Mỹ, như "Gone With The Wind" của Margaret Mitchell,
"The Old Man and the Sea" của Ernest Hemmingway, và "To Kill A
Mockingbird" của Harper Lee. Giải Pulitzer, do ông Joseph Pulitzer, một nhà
báo gốc Hungary sáng lập vào năm 1917, thoạt đầu dành cho báo chí sau mở rộng
ra bao gồm cả các bộ môn văn chương, kịch nghệ và âm nhạc. Về ba bộ môn sau tác
giả phải có quốc tịch Hoa kỳ. Riêng bộ môn báo chí, tác giả có thể là người ngoại
quốc nhưng tác phẩm đọat giải phải đã xuất hiện trên các cơ quan truyền thông Mỹ.
Năm 1973, Huỳnh Công Út, phóng viên nhiếp ảnh người Việt đầu tiên được giải
Pulitzer về nhiếp ảnh phóng sự (spot news photography), với tấm ảnh "Cô bé
Napalm."
Vào tháng Tư
năm ngoái khi cuốn tiểu thuyết "The Sympathizer" chào đời, do nhà
Grove Press ở New York xuất bản lần đầu, một vài người bạn tôi sau khi đọc vài
trang hay chương đầu, điện thư, giọng như có vẻ nhớn nhác nữa, hỏi tôi, thế là
thế nào, có phải nhân vật ấy nhân vật nọ là ông này ông kia trong cộng đồng người
Việt. Có chị bạn không có thì giờ đọc song muốn biết cốt chuyện, khi nghe tôi vừa
bắt đầu kể đây là cuốn truyện về một tên gián điệp Việt Cộng nằm vùng, chị bật
lên câu hỏi ngắt ngang lời tôi, thế anh ta sau có… hồi chánh không.
Các bạn tôi
hoang mang phần lớn vì cuốn truyện vốn lấy góc nhìn (point of view) của một gã Việt
Cộng nằm vùng từ trước 1975 ở Miền Nam và cả trong cộng đồng người Việt tại Mỹ
vào thời điểm giữa thập niên 1980. Tôi không trách được họ, vì chính bản thân tôi
cũng hơi bị "choáng váng" ở vài trang đầu. Nhưng vì hiếu kỳ, và cũng
vì đã đọc một số nhận định phần lớn là ca ngợi của một số nhà điểm sách của những
tờ báo lớn của Mỹ, nên tôi đọc tới, rồi dần bị lôi cuốn bởi văn phong duyên dáng,
tài kể chuyện, có khi rí rỏm, có lúc châm biếm, và khả năng xây dựng nhân vật
linh động, dàn dựng cốt chuyện chặt chẽ của tác giả.
"The
Sympathizer" mở đầu trong bối cảnh sôi động cùng cực của Miền Nam vào những
ngày tháng Tư năm 1975, qua nhãn quan của
nhân vật xưng tôi, từ đầu tới cuối không có tên và cả tuổi, như phần lớn những
nhân vật khác trong truyện. Tuy nhiên, dài theo chuyện kể thì ta có thể biết Cảm
Tình Viên (CTV) có lẽ vào khoảng trên dưới 30 vào lúc Miền Nam sắp tan hàng, là
một người con lai Pháp, con vô thừa nhận của một vị linh mục người Pháp và một
phụ nữ giúp việc nhà người Việt, lúc nhỏ thường bị đối xử một cách kỳ thị bất công
như hầu hết những đứa trẻ hai giòng máu sinh ra ở Việt Nam. Tuy vậy, anh ta cũng
được vị linh mục cho theo học trường của ông, và với sự khuyến khích của bà mẹ ít
học, anh ta học hành giỏi, và đã được học bổng đi du học tại Mỹ, trong vùng San
Francisco.
Trong thời
gian du học này anh ta được móc nối làm việc cho phía cộng sản. Khi về nước (Miền
Nam), anh ta nhập ngũ và trở thành một đại úy trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà,
là một thuộc hạ rất được tín cậy của một Ông Tướng, đến độ anh ta được Ông Tướng
cho một phòng riêng trong giẫy nhà ngang ở sau biệt thự của gia đình ông. Từ vị
trí cánh tay mặt thân tín của Ông Tướng, được giao phó việc thiết lập danh sách
di tản, CTV có dịp tiếp xúc và quan sát những nhũng lạm của một số tướng tá vào
những ngày cuối cùng của Miền Nam.
Trong khi đó
anh ta vẫn tiếp tục làm gián điệp cho Miền Bắc. Người mà anh có phần vụ báo cáo
các tin tức thu lượm được của phía Ông Tướng là một trong hai người anh em đã cùng
cắt máu ăn thề kết nghĩa trọn đời bảo bọc cho nhau, trong truyện có tên là Man,
một cán bộ VC nằm vùng.
Người anh em kết nghĩa kia có tên Bon, là một sĩ quan
trong quân lực VNCH. Bon la người duy nhất trong ba anh em kết nghĩa này không
biết hai người kia cùng là VC nằm vùng.
"Tôi là
một tên gián điệp, một gã nằm vùng, một bóng ma, một người với hai mặt,"
cuốn truyện mở đầu. "Có lẽ cũng không đáng ngạc nhiên là tôi cũng còn là
người mang hai bộ óc. Tôi không phải là một thứ biến thái nhìn lầm từ một cuốn
sách hí hoạ hay cuốn phim kinh dị nào, mặc dù có vài người đã đối xử với tôi như
[thể tôi là mấy thứ đó]. Thực ra tôi chỉ là người có khả năng nhìn bất cứ sự việc
gì từ hai phía." (Nguyen, Viet Thanh, 2015-04-02. The Sympathizer: A Novel,
Kindle Locations 29-31. Grove/Atlantic, Inc.. Kindle Edition.)
Có lẽ cũng chính
vì vị trí nhìn mọi sự việc từ hai phía của nhân vật xưng tôi này, nhiều độc giả
Việt hải ngoại, những người không chấp nhận cộng sản, đã không cảm thấy gần gũi
với người kể chuyện và cả câu chuyện kể. Dài theo 23 chương sách, người kể chuyện
cũng như độc giả hầu như không chia sẻ, liên đới, "đan kết" được với
nhau. Có lẽ cũng không quá lắm khi một người bạn tôi thốt lên là cuốn truyện
"khó nhai," là mình không cảm thấy xúc động ngay cả trước những cảnh
di tản vốn nhiều đau thương, hay những phấn đấu cam go để tồn tại của các nhân
vật trong thời gian đầu của cuộc sống lưu vong. Giản dị, khi đọc sách, đặc biệt
sách văn chương, ta thường đọc bằng tất cả những kinh nghiệm, suy tư và cả định
kiến cá nhân, một hành trình rất riêng tư.
Chưa kể, tác giả "The
Sympathizer" lại xử dụng thể loại văn chương ít ai dùng, nếu không nói là ngoại
lệ (unconventional), đó là loại phản người hùng (tạm dịch từ
"antihero" hay "antiheroine"), mà trong đó nhân vật chính
thiếu những giá trị ước lệ của xã hội, như lý tưởng, can trường và đức hạnh, để
kéo người đọc nhập vào dòng chuyện và "đứng về phe mình."
Loại nhân vật
này thường có cá tính đen tối như bất đồng quan điểm, thiếu thành thực, và năng
động. Cũng "khó đọc" nữa là về hình thức, tác giả không theo các quy
luật thông thường, như không để những ngoặc kép xung quanh những lời đối thoại,
khiến nhiều khi phải đọc đi đọc lại một đọan nào đó để biết ai đang nói cái gì.
Điều này, theo cái nhìn của tôi, cũng chứa đụng một ẩn ý nào đó về phía tác giả
nhằm vẽ lên những tranh tối tranh sáng, thay vì chỉ có trắng đen, của những vấn
đề chưa ngã ngũ, còn trong thời kỳ khai triển, còn biến thái qua muôn hình vạn
trạng.
Khi Saigon sắp
đầu hàng, với tin Bắc quân với xe tăng đã nằm trấn ở các ngả vào thủ đô, nhân vật
CTV tính ở lại, vì anh ta nghĩ đất nước đã tới lúc được giải phóng thì anh ta ở
lại để tiếp tay xây dựng. Nhưng tổ trưởng Man ra lệnh cho anh ta theo gia đình Ông
Tướng di tản để tiếp tục báo cáo mọi việc làm của Ông Tướng ở nước ngoài. Anh
ta đành tuân lệnh.
Trong chuyến di tản với gia đình Ông Tướng có cả gia đình
Bon, gồm vợ và một đứa con trai nhỏ. Trong lúc chạy vào đuôi chiếc phi cơ vận tải
quân sự của Mỹ chờ trên phi đạo ở phi trường Tân Sơn Nhất, vợ con của Bon bị đạn
lạc chết. Bon trở thành thất trí, sang tới Mỹ chỉ một hai nung nấu ý định trở về
VN để trả thù và khôi phục lại đất nưóc. Sang tới Mỹ, Ông
Tướng mở nhà hàng sinh sống, tiếp tục tin dùng CTV và bắt đầu thu thập tàn quân
nuôi mộng khôi phục đất nước.
CTV tất nhiên báo cáo mọi việc cho Man qua những
lá thư gửi sang Pháp cho một "bà cô," tường trình cả những buổi họp
nuôi mộng phục quốc sôi sục đầy khí thế trong cộng đồng người Việt hải ngoại mà
những người di tản năm 1975 và sau đó có lẽ còn nhớ, đã được tác giả mô tả khá
sống động như thể đã từng tham dự, mặc dù lúc ấy tác giả chỉ là một cậu bé con.
Tình cờ, và vì
sinh kế, CTV được thu nhận vào làm việc với tư cách cố vấn cho cuốn phim về chiến
tranh Việt Nam kiểu "Apocalypse Now" được quay tại Phi Luật Tân, nơi
các vai VC phụ diễn được tuyển trong đám thuyền nhân còn ở trong trại tị nạn,
nhiều người là những cựu quân nhân trong quân lực VNCH, đóng vì cần tiền và cũng
vì thường khi được tuyển đóng phim, nhất là làm phụ diễn (extras), không ai được
biết cốt truyện và chiều hướng của nhà làm phim.
Qua tiếp xúc với các thuyền nhân,
tìm hiểu vì sao họ phải bỏ cửa bỏ nhà bỏ quê hương liều chết vượt biển, CTV bắt
đầu chất vấn cái gọi là "lý tưởng cách mạng" mà anh ta theo đuổi lâu
nay. Trở lại Mỹ,
CVT được biết Ông Tướng bắt đầu gửi người về chiến khu hoạt động, và một trong
những người tình nguyện về là người anh
em kết nghĩa Bon. Sau khi thuyết phục Bon đừng về vì nguy hiểm không xong, CVT
cảm thấy, do đã cắt máu ăn thề đùm bọc lẫn nhau, mình phải xin đi theo để che
chở cho Bon. Để được Ông Tướng chấp nhận cho về chiến khu, CTV đã tham dự vào vụ
ám sát một cựu sĩ quan VNCH mà Ông Tướng tình nghi là "hai mang," và
chính tay giết thêm một nhân vật thường viết bài chỉ trích việc làm của nhóm Ông
Tướng, để chứng tỏ lòng trung thành với chính nghĩa của mình. Trong một cuộc
đụng độ đâu đó trong rừng ở vùng biên giới Đông Dương, nhóm kháng chiến bị lọt ổ
phục kích của quân cộng sản, một số bị giết và những người còn lại bị bắt,
trong đó có Bon và CTV.
Vì trường hợp đặc biệt khi thú nhận là đã hoạt động cho
phe cộng, CTV càng bị tình nghi, bị biệt giam, bị tra tấn, phải viết tới viết
lui một bản tự kiểm thảo, với kết quả là một tập giấy dầy tới gần 300 trang. Hành
trình này - tự kiểm thảo tới lui, bị biệt giam và tra tấn – đã giúp CTV dần
"giác ngộ," để thấy là các đồng chí của mình "[M]ột khi đã giải
phóng chúng ta dưới danh xưng độc lập và tự do – sao tôi mệt vô cùng khi nói tới
những chữ này! – chúng ta lại cướp đi chính những thứ này từ những người anh em
bị bại trận." (Kindle Locations 5497-5498)
Qua sự can
thiệp và cả hối lộ viên trưởng trại của tổ trưởng Man (bằng tiền bạc đút lót từ
các bà vợ của các tù cải tạo để được thăm nuôi lo cho chồng) tình cờ là bí thư chính
trị của trại tù nơi CTV bị giam giữ mà chỉ về sau này mới xuất đầu lộ diện, CVT
cuối cùng được phóng thích cùng với Bon, và với cả bản tự kiểm thảo do Man trao
lại: đó cũng chính là cuốn "The Sympathizer" mà độc giả đang cầm trên
tay.
Họ được hướng dẫn tới một trạm giao liên, và chờ ngày lên đường vượt biên.
Tôi phải mất
một thời gian để "tiêu hoá" câu chuyện, mặc dù biết đây chỉ là một
truyện sáng tác, dù tác giả nhìn nhận trong phần công nhận (Acknowledgments) ở
cuối sách, là "[N]hiều sự việc trong cuốn tiểu thuyết thực sự đã diễn ra,
mặc dù tôi phải nhìn nhận là đã tùy nghi thay đổi tình tiết và thứ tự thời
gian." (Kindle Locations 5594-5595). Tôi có linh cảm về một tầm mức quan
trọng của "The Sympathizer" do giá trị văn chương của cuốn truyện, hơn
là tính cách chính trị của những vụ việc dù dựa vào sự thực hay có tính cách sáng
tạo. Nhưng tin cuốn tiểu thuyết được giải Pulitzer quả là một bất ngờ. Những
ghi nhận bên dưới hoàn toàn là của cá nhân
tôi, và đã hẳn không phản ảnh suy tư của tác giả, người mà tôi chưa hề trực diện.
Do giá trị văn
chương nổi bật của cuốn truyện – cái sức mạnh không thể chối cãi của một tác phẩm
văn chương đã khiến một độc giả đọc mà tưởng như đang đọc chuyện có thật – đã,
có lẽ, khiến đài BBC tiếng Việt đặt thành "vấn đề" bằng tựa đề cho một
bài tường thuật gần đây, "Người Mỹ 'phải nhìn khác về chiến tranh VN',"
như thể đây là cuốn sách biên khảo về chiến tranh VN, chứ không phải là tiểu
thuyết (fiction). (*)
Cuộc chiến Việt
Nam không chỉ là những bàn cãi chưa ngã ngũ giữa các học giả, sử gia và những
người còn quan tâm thuộc thế hệ tôi, những người trên dưới 70, thế hệ người Việt
di dân thứ nhất, mà còn là quan tâm của nhiều người trẻ Việt đặc biệt thuộc thế
hệ 1.5, như tác giả "The Sympathizer." Là những người trẻ lớn lên
trong xã hội Mỹ, thụ huấn một nền giáo dục nhân bản và phóng khoáng, với tất cả
những cơ hội phát triển và tiến thân có thể nói vào bậc nhất thế giới, họ tất
nhiên không chấp nhận quan điểm của cha anh mình mà ngược lại, họ chất vấn những
tin tưởng, giá trị của tiền bối. Trong cuộc hành trình trí thức đó, họ cũng đồng
thời không chấp nhận quan điểm về cuộc chiến Việt Nam rất phiến diện của những
cuốn sách giáo khoa mà họ phải học khi còn ở trung học, và nhan nhản trong nhiều
cuốn sách về chiến tranh Việt Nam vốn ảnh hưởng bởi phong trào phản chiến vốn bị
ô nhiễm bởi hệ thống tuyên truyền tinh vi của khối cộng sản vào cuối thập niên
1960, đầu thập niên 1970. Thế hệ Việt 1.5 và sau này muốn "nhìn […] sự việc
từ hai phía," để từ đó xây dựng một hệ thống giá trị của riêng họ.
Điều nổi bật
nhất nơi, nếu không nói là một thứ căn cước của, những người di dân thuộc thế hệ
tôi, đã hẳn, là tinh thần chống cộng.
Làm
sao không chống cộng được khi mà chủ nghĩa tàn độc này, từ gần một thế kỷ qua, trải
dài cả thảy là ba, bốn thế hệ, đã hủy diệt bao nhiêu khát vọng độc lập tự do thật
sự để xây dựng đất nước, vun sới tiền đồ của tổ tiên, dân tộc. Đấy là chưa kể
con người đã và đang bị tha hoá, không còn phân biệt phải trái, chính tà; và một
môi trường thiên nhiên đã không những không được bảo vệ mà còn bị tàn phá vì những
lợi nhuận nhỏ bé cá nhân của tầng lớp lãnh đạo từ trung ương tới địa phương. Điển hình là vụ cá
bị nhiễm độc chết trắng một vùng dọc bờ biển miền Trung Việt Nam do Công ty
TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, thuộc tập đoàn Formosa Đài Loan (mà
phiá sau cũng là từ Hoa Lục), hoạt động tại Khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh,
gây ra và hiện đang gây xôn xao, phẫn nộ trong dư luận cả trong và ngoài nước.
Nói đến tinh
thần chống cộng thì ta cũng phải nhìn nhận
là có nhiều thành phần trong cộng đồng hải ngoại đã trở thành chống Cộng hết sức
cực đoan, tới độ nhìn đâu cũng thấy VC, rồi
xoay ra tố cáo lẫn nhau, xẩy ra cái cảnh mà một nguời bạn của tôi đã gán cho cái
nhãn "quân mình đánh quân ta," tiếp nối một trận hoả mù đã từng diễn
ra ở Miền Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh mà nấp phía sau là các đặc công VC
mà nhiều người Miền Nam dạo ấy không thấy, có khi ngay cả chính nạn nhân cũng
không thấy và không biết luôn. Trường hợp điển hình mà tôi biết đích xác là vụ
nhà văn/nhà báo Chu Tử bị ám sát hụt vào giữa năm 1966. Cho tới khi chết - ông
Chu Tử bị tử thương trên chuyến tầu di tản ngày 30 tháng 4, 1975 khi tầu còn
trong sông Saigòn, nhiều người tin là bị B40 của VC – ông có lẽ vẫn tin là mình
bị "người anh em quốc gia" thanh toán. Thực tế, ông bị đặc công Huỳnh
Văn Long ám sát, nhưng một người nào đó, có thể là chính Long, được VC dàn dựng
là người mưu sát ông tới tìm gặp ông, cho biết là cảm tình viên của Thượng toạ
Thích Thiện Minh, thấy thầy mình bị ông Chu Tử chỉ trích, tức khí, đi tìm bắn
nhà báo để trả thù, không ngoài chủ trương gây chia rẽ giữa báo chí và tôn giáo.(**)
Kết quả của
những vụ "quân mình đánh quân ta" là nhiều người phát chán nản, không
muốn dính vào chuyện cộng đồng. Thậm chí
còn gọi cộng đồng Việt, đặc biệt ở vùng Orange County, Nam Cali, là chốn
"gió tanh mưa máu." Một số bạn báo chí Việt ngữ của tôi cảm thấy mặc
dù mình đang sinh hoạt trong một xã hội mà quyền tự do báo chí được tuyệt đối bảo
vệ qua Tu Hiến Pháp Thứ nhất (First Amendment) nhưng họ không thấy được tự do hành
nghề. Rất ít những người trẻ thuộc thế hệ 1.5 còn sinh hoạt trong cộng đồng; phần
lớn hội nhập vào và xây dựng sự nghiệp của mình trong giòng chính. Một số ít, vì
một đam mê nghề nghiệp nào đó hoặc do nhu cầu phục vụ, đi về Việt Nam làm việc,
cả phối hợp với các cơ quan trong nước, để làm những việc mà họ không có cơ hội
và được sự hỗ trợ của cộng đồng hải ngoại. Điển hình là phần lớn những phim truyện
được trình chiếu trong kỳ đại hội điện ảnh Việt Film Fest vừa qua đã xuất phát
từ Việt Nam nhưng lại do những nhà làm phim gốc Việt tại Mỹ thực hiện, với sự
phối hợp và giúp đỡ của các cơ quan trong nước. Ngoài ra, còn có những người trẻ
về nước trong âm thầm để làm những việc xã hội cho những lớp người dân đã bị chế
độ Hà Nội bỏ quên.
Và không ít những người trẻ này đã bị nhiều người trong cộng
đồng chỉ trích là làm lợi cho cộng sản, hay bị cộng sản lợi dụng.
Phải thẳng thắn
mà nhìn nhận là giữa các thế hệ 1 và 1.5 – khoan nói tới thế hệ 2 trở đi, gồm các
em sinh ra tại Mỹ -- hiện có một hố sâu ngăn cách: chúng ta không hiểu các con
em của mình, cho là chúng bị Mỹ hoá, và
về quan điểm chính trị, chúng chưa hay không chống cộng đủ. Và ngược lại, các
thế hệ trẻ không hiểu chúng ta. Một chuyện khá bi hài về bất đồng thế hệ mà tôi
nghe kể, là có vài vị trưởng thượng tại một thành phố nọ ở Quận Cam đã đòi đuổi
một ông thị trưởng trẻ gốc Việt về vườn, bằng luật "recall," vì ông này
không chống cộng đủ. Nhiều bậc cha mẹ còn
giữ thói quen "nói xuống" các em, thay vì "nói với," cho rằng
chúng phải tìm tới mình, thay vì mình với tới (reach out) chúng.
Tình trạng này
xẩy ra phần lớn cũng còn vì ngôn ngữ bất đồng: cha mẹ không đủ tiếng Mỹ để nói
chuyện sâu sắc với các con, mà con cái thì cũng không đủ tiếng Việt để đối thoại
một cách có ý nghĩa với cha mẹ. Nhiều em lớn lên hay sinh ra ở Mỹ không thông
thạo tiếng Việt thường bị các bậc cha mẹ hay trưởng thượng kỳ thị, không coi các
em là người Việt; thế nhưng họ lại vui vẻ đón nhận và khen ngợi một người Mỹ
hay ngoại chủng chỉ vì người này thích ăn cơm Việt, biết dùng nước mắm, và bập
bẹ được vài câu tiếng Việt. Đấy là chỉ mới nói tới chuyện bất đồng ngôn ngữ và
văn hoá, khoan nói tới lịch sử hay chính trị, đặc biệt là cuộc chiến Việt Nam.
Tuổi trẻ Việt,
qua "The Sympathizer," theo cảm nhận chủ quan của tôi, hình như đã nhìn
thấy đường ra khỏi trận hoả mù mà cuộc chiến Việt Nam đã gây ra. Thái độ của tôi
là chấp nhận họ với một trạng thái như thế, cũng như không nên gán cho cuốn tiểu
thuyết cái nhãn "chống Cộng" hay "thân Cộng."
Vả lại, đây chẳng
qua chỉ là một cuốn tiểu thuyết. Và cũng có lẽ chỉ có văn chương vốn có một kích
thước vô bờ bến, và với hình thức tiểu thuyết, mới có thể giúp tác giả nói lên
được những suy tư chủ quan của mình, trong hành trình chữa thương nhằm "giải
oan cho cuộc biển dâu" (***) này, chăng?
Tôi đọc đâu đó,
được biết tác giả Nguyễn Thanh Việt đang viết cuốn "sequel" của
"The Sympathizer." Đã từng thưởng ngoạn tính chất văn chương của
"The Sympathizer," tất nhiên là tôi chờ đợi cuốn kế.
Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24-03-1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quãng Ngãi.
Thuở bé Bích Khê đã tỏ ra là người thông minh và có một trí nhớ mạnh. Năm 13 tuổi, ông học lớp Nhất trường Pháp Việt Đồng Hới, và 1929, đậu bằng tiểu học Pháp Việt
Và người thi sĩ vĩ đại Tô Thùy Yên, bất lực trước tàn phá của chiến tranh trên quê hương, trên Tính, Mệnh, của người dân Việt Nam, ông cũng đã phải chua chát hét lên như
Làm thế nào để hình dung về Phạm Công Thiện? Một lần tôi đã tự hỏi mình như thế. Và ngay lập tức trước mắt tôi hiện ra một cặp kính cận dày cộm và chòm tóc trắng phất phơ… Có lẽ, nếu vẽ vài nét trên giấy
Trong ghi nhận của tôi thì, thời điểm từ 1965 tới 1975, bên cạnh những mùa gặt sung mãn về sách dịch các loại, là sự rộ nở tới mức độ “choáng ngợp” của các khuynh hướng văn chương đối nghịch nhau.